Năm 1946, ngành chăn nuôi gia cầm bắt đầu chú ý đến di truyền học. Với sự trợ giúp của USDA (1), cuộc thi “Gà của Tương Lai” đã được tổ chức nhằm tìm ra giống gà có nhiều thịt ức và cần ít cảm nhất. Ngôi quán quân đã gây không ít ngạc nhiên: gà của nhà Charles Vantress từ thành phố Marysville, bang Cali. (Trước giờ gà từ vùng New England mới được coi là giống tốt.) Gà nhà Vantress là gà lai giữa giống Cornish lông đỏ cùng giống gà ở New Hampshire. Dòng máu Cornish đến giờ mới được người ta chú ý. Theo một tạp chí nông nghiệp, đây là dòng máu sinh ra những chú gà với “phần ngực lớn cực kỳ thích hợp cho marketing ở thời kỳ hậu chiến.”
Ảnh sưu tầm: Poster cho cuộc thi "Gà của Tương Lai" (*)
Những năm 40 cũng là thời điểm các loại thuốc sulfa (kháng sinh, trị nấm) và các loại kháng sinh bắt đầu được pha cùng cám cho gà ăn. Điều này giúp kích trưởng và trị các loại dịch bệnh gây ra do môi trường nuôi nhốt chật chội. Cám và thuốc được phát triển phối hợp với giống “gà của Tương Lai". Cho đến những năm 50, không chỉ còn một loại gà trong chăn nuôi nữa, mà phân ra hai loại: gà trứng và gà thịt.
Người ta kiểm soát gen di truyền, cám và môi trường nuôi để phù hợp với 2 loại gà nói trên. Kích đẻ cho gà trứng, và kích thịt (đặc biệt là phần ức) cho gà thịt. Từ năm 1935 đến năm 1995, cân nặng trung bình của gà thịt tăng 65%, trong khi đó, thời gian nuôi giảm 60% và lượng cám cần để nuôi một con gà giảm 57%. Để cho dễ hiểu, bạn có thể tưởng tượng một đứa trẻ 10 tuổi mà đã nặng hơn 130 cân, được nuôi hoàn toàn bằng thanh ngũ cốc và các loại thực phẩm chức năng.
Tranh minh hoạ của Elf Society bởi artist Nguyễn Hạnh Nguyên
Đây không chỉ là những điều chỉnh đơn thuần về ăn uống hay môi trường, chúng đã thay đổi hoàn toàn cách nuôi gà. Với những điều chỉnh về này, kháng sinh và môi trường trong nhà không chỉ là để tối ưu hoá lợi nhuận. Loài gà biến đổi gen đã không còn khả năng đề kháng, hay thậm chí là không thể sống nếu không có sự can thiệp của con người.
Tệ hơn cả, những con gà biến đổi gen này không phải là thiểu số trong ngành chăn nuôi - chúng là gần như là loại duy nhất được nuôi để sản xuất thịt. Trước đây, có hàng chục các giống gà khác nhau được nuôi ở đất Mỹ (giống Jersey Giants, New Hampshire, hay Plymouth Rock), mỗi giống có những đặc điểm tiến hoá riêng để phù hợp với môi trường sinh trưởng. Ngày nay, chúng ta chỉ còn những con gà công nghiệp.
Từ những năm 50 và 60, các công ty chăn nuôi gia cầm đã bắt đầu đạt được mô hình liên kết chiều dọc (1) (kiểm soát toàn bộ từ đầu vào - các nhà cung cấp, và đầu ra - nhà phân phối). Họ kiểm soát nguồn gen (ngày nay, 2 công ty lớn sở hữu ¾ nguồn gen cho tất cả gà thịt trên thế giới). Công ty lớn sở hữu tất cả số gà (những người nông dân chỉ trông coi chúng), tất cả các loại thuốc cần thiết, cám, toàn bộ quá trình từ giết mổ, xử lý thịt cho đến việc bán hàng ra thị trường.
Không chỉ có kỹ thuật chăn nuôi bị thay đổi. Sự đa dạng về sinh học bị đồng hoá bởi di truyền học. Ngành chăn nuôi trong các trường đại học, giờ chuyển thành ngành khoa học động vật. Một ngành kinh doanh vốn do người phụ nữ đóng vai trò chính, nay bị thâu tóm bởi đàn ông. Những người cả đời làm nông phải nhường chỗ cho người lao động theo hợp đồng. Chẳng ai hô xuất phát. Vậy mà thế giới cứ đua nhau chạy xuống vực thẳm.
Comments